Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền dự sơ kết 2 năm thực hiện đề án 1956


Ngày 11/1, Chính phủ tổ chức hội nghị toàn quốc sơ kết 2 năm thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 21/11/2009 về phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tới năm 2020 (gọi tắt là Đề án 1956).
Dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg, hội nghị được truyền hình trực tuyến tới 63 tỉnh, thành phố cả nước.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu Ban Chỉ đạo Trung ương cần xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, định kỳ và rà soát lại toàn bộ các chính sách đã ban hành.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu Ban Chỉ đạo Trung ương cần xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, định kỳ và rà soát lại toàn bộ các chính sách đã ban hành.
Sau 2 năm thực hiện Đề án, có thể khẳng định Đề án 1956 đã thành công, tạo dấu ấn rất sâu đậm và có ý nghĩa to lớn trong nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội trên toàn quốc. Đến nay, đã cơ bản hoàn thành việc hướng dẫn và triển khai thực hiện các hoạt động của Đề án, gần 800 ngàn lượt người được học nghề, tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau học nghề ở 54 tỉnh, thành phố đạt trên 70%, đã cơ bản hoàn thành việc tổ chức thí điểm mô hình dạy nghề và đặt hàng dạy nghề cho lao động nông thôn và xây dựng được một số mô hình tiên tiến.
Các doanh nghiệp dệt may khẳng định Đề án 1956 đã có tác động tích cực tới các doanh nghiệp trong 2 năm qua. Trong bối cảnh thiếu hụt lao động nghiêm trọng, kinh tế suy giảm thì những cơ chế của Đề án tạo ra đã giúp doanh nghiệp thu hút lao động, đồng thời tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động của người lao động nông thôn đã được nâng cao.
Với Đề án 1956, lần đầu tiên những mục tiêu định lượng về số lao động được đào tạo nghề và hiệu quả của các lớp học được đưa ra. Theo đó, bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, giai đoạn 2011 – 2015 đào tạo nghề cho 5,2 triệu lao động nông thôn. Khoảng 120.000 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế được học nghề theo đơn đặt hàng. Về hiệu quả, Đề án đặt mục tiêu tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này tối thiểu đạt 70%.
Thực tế cho thấy, nếu lãnh đạo địa phương quan tâm, quán triệt đúng tinh thần Đề án thì hoạt động dạy nghề sẽ đi đúng hướng và ngược lại. Ý thức được điều này, trong năm 2011, Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Đề án 1956 đã quán triệt việc thực hiện “4 có” và “4 biết”. Theo nhận định của Ban Chỉ đạo Trung ương, địa phương nào thực hiện đủ “4 có”- “4 biết” thì hầu hết lao động sau học nghề có việc làm, vì đáp ứng đúng nhu cầu của lao động và nhu cầu nhân lực địa phương. Tuy nhiên, còn một số địa phương chưa nắm được tinh thần này, làm không đúng và không trúng. Việc xác định nhu cầu học nghề của lao động cũng phải cân nhắc trên cơ sở thực tế địa phương.
Mặc dù đã có những kết quả rất nổi bật, nhưng công tác dạy nghề cho lao động nông thôn trong 2 năm vừa qua mới chủ yếu tập trung vào các mô hình thí điểm, việc đào tạo mở rộng ở các địa phương vẫn còn có những hạn chế phải khắc phục. Vẫn còn tình trạng nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người học, chưa gắn chặt với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp. Chỉ tiêu về số lượng dạy nghề cho lao động nông thôn chỉ đạt 87%. Vẫn có 9 tỉnh, thành không đạt mục tiêu tỷ lệ lao động nông thôn học nghề có việc làm theo mục tiêu của Đề án.
Trên cơ sở những thành công ban đầu, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đề nghị năm 2012, sẽ tiếp tục đào tạo khoảng 600.000 lượt người. Về phía người nông dân, cần xác định rõ đầu ra của công việc rồi mới xác định mình sẽ đăng ký học nghề gì.
Ban Chỉ đạo Trung ương cần xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, định kỳ công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, tối thiểu 2 năm/lần. Rà soát lại toàn bộ các chính sách đã ban hành, công bố trước 27/2 để các địa phương chủ động hướng dẫn thực hiện.
Trong quý 1/2012, các địa phương cần cơ bản khắc phục được “4 thiếu”, đó là thiếu đề án cấp địa phương, thiếu biên chế cho công tác dạy nghề ở cấp huyện, thiếu Ban chỉ đạo dạy nghề cho lao động nông thôn ở 11% số huyện và 27% số xã trên cả nước, thiếu Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của 9 tỉnh.
Trong tháng 2/2012, các địa phương tổng kết công tác dạy nghề cho lao động nông thôn tại địa phương mình.
Nhấn mạnh vai trò của công tác thông tin tuyên truyền, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đánh giá cao sự vào cuộc mạnh mẽ, có trách nhiệm của các cơ quan thông tấn, báo chí trên cả nước. Phó Thủ tướng đề nghị các đài truyền hình, đài tiếng nói của các tỉnh, thành phố khẩn trương xây dựng chuyên mục dạy nghề cho lao động nông thôn. Đồng thời, Phó Thủ tướng mong muốn các cơ quan báo chí cần tiếp cận nguồn tài liệu chính thức của Ban Chỉ đạo Trung ương để tuyên truyền đúng, kịp thời những gương điển hình.
Từ Lương

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đối thoại trực tuyến về công tác an sinh xã hội


Chiều nay, 19/12, tại Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hộiPhạm Thị Hải Chuyền đã đối thoại trực tuyến với người dân về công tác an sinh xã hội.
Cuộc đối thoại tập trung vào các nhóm vấn đề chính: thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2011-2015; thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ; đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; trợ cấp, trợ giúp các đối tượng khó khăn, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.
Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
BTV: Trong thời gian qua, Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng đất nước vẫn đảm bảo được sự ổn định để phát triển, điều đó một phần là do công tác an sinh xã hội đã được thực hiện rất có hiệu quả. Vậy xin Bộ trưởng cho biết chủ trương về công tác an sinh xã hội theo NQ 11 của Chính phủ đã được quán triệt, triển khai như thế nào để có được một kết quả như vậy?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đối thoại trực tuyến về công tác an sinh xã hội
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đối thoại trực tuyến về công tác an sinh xã hội
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Trong bối cảnh kinh tế hết sức khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến chính sách an sinh xã hội. Chính vì vậy, trong khi cắt giảm các loại chi tiêu khác thì trong lĩnh vực an sinh xã hội không những không cắt giảm mà còn tăng lên, đồng thời có những nghị quyết rất cụ thể. Tháng 5/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011-2020. Bên cạnh đó, Chính phủ giao Bộ LĐTBXH xây dựng Chương trình quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 -2015 và tới đây, Chính phủ sẽ phê duyệt.
Bên cạnh những chủ trương, định hướng lớn, Chính phủ đã ban hành những chính sách cụ thể để giảm nghèo bền vững.
Vừa qua, Chính phủ đã thực hiện sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 30a về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo. Nghị quyết đã đi vào cuộc sống.
Tổng số vốn ngân sách trung ương đã bố trí để hỗ trợ thực hiện chương trình theo Nghị quyết 30a kể từ năm 2008 là 8.535 tỷ đồng, trong đó cho đầu tư là 6.493 tỷ đồng còn lại là vốn sự nghiệp, giúp các huyện nghèo chủ động giải quyết các khó khăn trên địa bàn. Bên cạnh vốn ngân sách, Chính phủ dành ưu tiên trong phân bổ vốn trái phiếu, vốn ODA cho các huyện nghèo. Với tổng số kinh phí 22.000 tỷ đồng trong 3 năm, bình quân mỗi huyện được bố trí 118 tỷ đồng một năm.
Chính phủ cũng đã giao các doanh nghiệp tham gia góp sức cùng với nhân dân các huyện khó khăn để giảm nghèo. Có 40 doanh nghiệp đăng ký tham gia.
Năm 2011, trong điều kiện rất khó khăn, các doanh nghiệp đã hỗ trợ các huyện nghèo 350 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng, phát triển cơ sở sản xuất.
Ngoài ra, các phong trào huy động cộng đồng, dân cư, dòng tộc tham gia hỗ trợ giảm nghèo được triển khai.
Chính vì vậy, mục tiêu giảm nghèo của giai đoạn này là giảm 4% một năm nhưng theo kết quả tại cuộc sơ kết, tỷ lệ giảm nghèo đã đạt 5% một năm.
Riêng năm 2011, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, Chính phủ vẫn bố trí kinh phí để giảm nghèo gấp đôi so với năm 2010.
Lê Trọng Hoàng – Huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái: Hiện nay đã có khá nhiều các chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo đang được thực hiện, vậy vì sao lại phải triển khai thêm một chương trình nữa là chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015? Chương trình này có những điểm gì mới và sau một năm triển khai thực hiện đã đạt kết quả như thế nào ?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tỷ lệ giảm nghèo tuy đạt được 5% nhưng vẫn chưa thực sự đảm bảo ổn định, bền vững. Đối với vùng sâu, xa, vùng dễ gặp thiên tai, chỉ cần gặp thiên tai bất thường, có thể tái nghèo. Chính vì vậy, Chính phủ thấy rằng, vấn đề giảm nghèo bền vững là mục tiêu quan trọng. Dù chúng ta đã làm được nhưng vẫn cần Nghị quyết về giảm nghèo bền vững và chúng tôi đã xây dựng chương trình giảm nghèo quốc gia để trình Chính phủ.
Đinh Văn Thành –   Huyện Tủa Chùa – tỉnh Điện Biên: Liệu việc thắt chặt chi tiêu, cắt giảm đầu tư theo NQ 11 có ảnh hưởng đến các nguồn vốn đầu tư cho giảm nghèo hay không nhất là các nguồn vốn đầu tư theo nghị quyết 30a của Chính phủ?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chính phủ quy định rất rõ không cắt giảm nguồn vốn đầu tư cho giảm nghèo, nhất là các công trình đã và đang triển khai thì cần tiếp tục. Còn các công trình chưa triển khai thì tỉnh cần báo cáo Thủ tướng nhưng tinh thần vẫn là không cắt giảm.
Lương Thị Huệ -  Huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh: Trong bối cảnh thắt chặt chi tiêu như hiện nay thì việc huy đông các nguồn lực xã hội giúp người nghèo là rất cần thiết. Vậy Bộ LĐTBXH đã có biện pháp gì để tăng cường huy động các nguồn lực cho công tác này?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Hiện nay, tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội trong lúc ngân sách còn khó khăn, Chính phủ ban hành nghị quyết tăng cường đầu tư hỗ trợ các đối tượng khó khăn, giảm nghèo. Như tôi đã nói, ngoài những chương trình cho 62 huyện nghèo, thì năm 2011, Chính phủ đã hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo khoảng 930 tỷ đồng, trợ cấp khó khăn đột xuất cho các đối tượng thu nhập thấp, riêng kinh phí cho các hộ nghèo khoảng 765 tỷ đồng, khắc phục hậu quả thiên tại lũ lụt, cấp khoảng 6.000 tấn gạo cho hơn 8.000 hộ ở những vùng khó khăn do thiên tai mà chủ yếu là vùng nghèo ở nông thôn.
Ngoài ra, Chính phủ cũng tiếp tục đầu tư cho các chương trình an sinh xã hội, như ưu tiên kinh phí trợ giúp người nghèo về y tế, giáo dục, cụ thể chi 5.756 tỷ đồng mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, chi khoảng 3.500 tỷ đồng thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh, chi 1.850 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, đã hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm.
Chương trình mục tiêu quốc gia của năm 2011 chưa được phê duyệt, nhưng Chính phủ cũng tiếp tục đầu tư 483 tỷ đồng hỗ trợ vốn thực hiện việc giảm nghèo cho các tỉnh. Như vậy, ngoài huy động vốn từ ngân sách, Chính phủ cũng thực hiện các chính sách cụ thể đối với hộ nghèo như tôi nói, đồng thời giành nguồn lực ưu tiên cho 62 huyện nghèo tăng gấp đôi so với năm 2010.
Hoàng Minh Hiển –  huyện Lục Ngạn, Bắc Giang: Các chương trình giảm nghèo rất hợp với lòng dân, song công tác quản lý ở một số địa phương chưa tốt còn để thất thoát và chất lượng kém, xin ý kiến nhận xét của Bộ trưởng về vấn đề này?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền:  Về vấn đề này, đến nay, trên cương vị Bộ trưởng Bộ LĐTBXH, tôi chưa nhận được phản ánh về việc thất thoát. Tuy nhiên, qua một số thông tin như vậy, tôi cho rằng cần kiểm tra, xem xét, xử lý các sai phạm nếu có.
Nguyễn Minh Thắng – Trạm Tấu, Yên Bái: Thưa Bộ trưởng, mức chuẩn nghèo đang áp dụng được tính toán dựa trên căn cứ nào và trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, Bộ LĐTBXH có tính đến việc điều chỉnh chuẩn nghèo hàng năm cho phù hợp với chỉ số lạm phát hay không?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chuẩn nghèo được xác định trên cơ sở chuẩn chi tiêu tối thiểu. Trên cơ sở đó NQ 09 năm 2009 của Chính phủ đã quy định rõ, chuẩn nghèo đối với bình quân 1 khẩu là 400.000 đồng/tháng ở nông thôn, 500.000 đồng/tháng ở thành thị. Với chuẩn ấy, về nguyên tắc phù hợp tại thời điểm ban hành quy định, nhưng khi trượt giá cần nâng chuẩn lên. Nhưng thực tế, việc nâng chuẩn nghèo cần có quá trình nghiên cứu đánh giá, khảo sát và phải phụ thuộc khả năng chung của ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo theo chuẩn nghèo đó. Do vậy, không thể ngay một lúc có thể thay đổi chuẩn nghèo. Nhưng, trong bối cảnh trượt giá, nếu quá khó khăn, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hỗ trợ nhất định để đảm bảo mức tối thiểu.
Phạm Nhật Anh – Yên Hưng, Quảng Ninh: Hiện nay ở một số địa phương, việc bình xét hộ nghèo chưa được dân chủ, công khai dẫn đến tình trạng nhiều người nghèo thật sự nhưng không được sự hỗ trợ của Nhà nước. Vấn đề này đã nhiều lần được đề cập nhưng vì sao vẫn chưa được giải quyết dứt điểm và Bộ LĐTBXH sẽ có giải pháp gì để giúp các địa phương thực hiện tốt vấn đề này?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Rất cám ơn sự quan tâm của độc giả. Quan điểm của Chính phủ về việc bình xét hộ nghèo là công bằng, mỗi đợt bình xét Chính phủ đều có chỉ đạo, nhắc nhở và yêu cầu có tiêu chí cụ thể. Tuy nhiên, như độc giả phản ánh, ở các địa phương, có thể còn có nơi nào đó làm chưa tốt. Chúng tôi rất mong nhận được những phản ánh cụ thể về những đơn vị đó, chúng tôi sẽ chỉ đạo kiểm tra, xem xét và có biện pháp xử lý.
Nguyễn Huy Trường – thành phố Việt Trì, Phú Thọ: Hiện nay có một thực trạng là người nghèo càng khó tiếp cận với các dịch vụ tư vấn về pháp luật nên dễ bị thiệt thòi trong các giao dịch dân sự. Theo Bộ trưởng cần làm gì để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề này bởi người nghèo khó tiếp cận các dịch vụ tư vấn luật pháp. Tôi thấy cần có sự hỗ trợ người dân như tổ chức tốt các câu lạc bộ, trung tâm hỗ trợ pháp lý ở địa phương.
Đặng Văn Thành –  huyện Kiến Thụy – TP Hải Phòng và độc giả có địa chỉ luuhuutu@…:Lạm phát, giá cả tăng cao đã ảnh hưởng tới đời sống của đại bộ phận người lao động thu nhập thấp, các đối tượng chính sách trong xã hội. Bộ LĐTBXH đã có những hoạt động gì để giúp người nghèo và các gia đình chính sách vơi bớt khó khăn trong cuộc sống, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà Tết Nguyên đán đang đến gần? Và Bộ sẽ có những giải pháp nào để hạn chế tiêu cực trong công tác phân phát những khoản hỗ trợ đến tay nhân dân?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Trong tình hình chung, đối tượng thu nhập thấp bao giờ cũng gặp khó khăn hơn, đặc biệt là năm nay khó khăn đó rất lớn. Trước tình hình này, Chính phủ đã giao Bộ LĐTBXH nghiên cứu, xem xét đề xuất các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn này. Thực hiện Nghị quyết 11, Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính và một số bộ khác ban hành chính sách cụ thể như hỗ trợ tiền điện hàng tháng là 30 nghìn đồng kể từ tháng 3/2011 đối với các hộ nghèo theo chuẩn quốc gia, hỗ trợ 250 nghìn đồng cho những người có mức lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội dưới 2,5 triệu đồng/tháng, hỗ trợ 60 nghìn tấn gạo cứu đói cho 811 nghìn hộ với 2 triệu khẩu.
Bộ đã có công văn nhắc nhở, yêu cầu các địa phương rà soát, nắm tình hình các đối tượng khó khăn để báo cáo Chính phủ, từ đó kịp thời ban hành, chỉ đạo thực hiện các giải pháp cụ thể. Vừa rồi, Chính phủ đã quyết định hỗ trợ một phần đối với các tỉnh bị bão lũ.
Bùi Văn Đệ – huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai: Tôi có đọc được thông tin qua báo chí ước tính tới 40% các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã ngừng hoạt động dẫn đến số lao động thất nghiệp gia tăng. Xin Bộ trưởng cho biết tình hình cụ thể thế nào? Trước tình hình trên thì Bộ LĐTBXH đã làm  gì để hỗ trợ người lao động bị mất việc hoặc gặp khó khăn về việc làm?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tôi xin thông tin thêm, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 11/2011, doanh nghiệp đã đăng ký 609.907, doanh nghiệp đã thu hồi chứng nhận đăng ký là 76.317, chiếm khoảng 12,6%, chứ không phải 40%. Tuy nhiên, trong số chưa phải thu hồi cũng có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, có thể tạm dừng sản xuất, ảnh hưởng nhất định tới đời sống người lao động hoặc ảnh hưởng tới việc làm.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Thứ nhất, làm sao để những người lao động này có việc làm ở nơi khác. Thứ hai, hỗ trợ họ nếu chưa thể tìm việc làm ở chỗ khác.
Bộ LĐTBXH đã chỉ đạo cụ thể như có văn bản đề nghị địa phương ưu tiên những người thất nghiệp vay vốn từ Quỹ việc làm quốc gia; chỉ đạo các trung tâm giới thiệu việc làm cung cấp thông tin về thị trường lao động để họ có thể tìm được việc làm mới; thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp; kiểm tra, hướng dẫn các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các quy định về chế độ chính sách đối với người lao động.
Lê Đức Thành – TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình: Tôi thấy trong khi nhiều lao động trong nước gặp khó khăn về việc làm hoặc thậm chí thất nghiệp thì tình trạng lao động phổ thông nước ngoài làm việc không phép tại Việt Nam vẫn có chiều hướng tăng. Vấn đề này đã được dư luận cảnh báo nhưng vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Xin Bộ trưởng cho biết thực trạng vấn đề này đến đâu và chủ trương giải quyết của Bộ LĐ- TB-XH?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Đây là là vấn đề được nhiều độc giả quan tâm. Tôi đề nghị Cục phó Cục Việc làm Lê Quang Trung giải thích rõ hơn.
Ông Lê Quang Trung, Cục phó Cục Việc làm: Xin cám ơn ý kiến của độc giả. Thời gian qua, vấn đề lao động nước ngoài được dư luận quan tâm, các phương tiện thông tin đại chúng đề cập. Theo báo cáo của các sở lao động- thương binh và xã hội, tính đến tháng 9/2011, ở Việt Nam có 78.440 người nước ngoài làm việc, trong đó 41.529 người được cấp giấy phép. Số không thuộc diện được cấp giấy phép (tức là vào Việt Nam làm việc dưới 3 tháng) là 5.581 người, số còn lại chưa được cấp giấy phép, đang làm thủ tục chiếm khoảng 30%.
Qua kiểm tra của các địa phương, của Bộ, lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn cao hầu hết làm việc cho các nhà thầu nước ngoài trúng thầu tại Việt Nam. Trong số này, phần lớn làm việc dưới 3 tháng, không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Ví dụ, Ninh Bình có 1.363 người, trong đó 1.005 người thuộc diện cấp giấy phép. Tại Cà Mau có 1.600 người, đến nay hầu hết đã được giấy phép và một số đã làm thủ tục cấp giấy phép.
Bộ đã có nhiều văn bản chỉ đạo các địa phương rà soát, kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật. Đồng thời, hoàn thiện các quy định của pháp luật. Năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 46 để quản lý chặt chẽ các nhóm lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, đồng thời chúng ta tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính để thu hút các lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy định về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trước hết, xây dựng Luật Việc làm, trong đó có nội dung quan trọng về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đồng thời, chúng tôi đề nghị sớm xây dựng Luật Xuất nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu quy định cụ thể vấn đề lao động từ khâu mời thầu, dự thầu, chấm thầu, thực hiện gói thầu các nhà thầu nước ngoài.
Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là cho lao động nước ngoài, cho các nhà thầu, cho chủ đầu tư, cho các doanh nghiệp, tổ chức, các đơn vị cơ sở…
Bên cạnh đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Một giải pháp quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là giữa ngành lao động, thương binh xã hội và ngành công an, ngành kế hoạch đầu tư  và các ngành có liên quan.
Trần Duy Văn -  Quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng: Tôi muốn chốt sổ bảo hiểm ở công ty cũ để đi tìm việc làm mới nhưng được trả lời là khó và chưa biết khi nào có thể chốt được vì công ty còn nợ tiền BH. Xin tư vấn cho tôi cách giải quyết tốt nhất và xin Bộ trưởng cho biết quan điểm chỉ đạo của Bộ LĐTBXH về tình trạng chây ỳ, nợ đọng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp?
Bà Trần Thị Thúy Nga- Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội: Việc xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên sổ bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng đến thời điểm nào thì xác nhận đến thời điểm đó. Trường hợp doanh nghiệp còn nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, cơ quan bảo hiểm chưa có căn cứ để xác nhận thời gian còn nợ đó vào sổ bảo hiểm xã hội.
Trên thực tế, thời gian qua, một số doanh nghiệp trích tiền lương của người lao động nhưng chưa đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, nay người lao động cần chốt sổ bảo hiểm xã hội để đi tìm việc làm mới, Bảo hiểm Việt Nam cũng đã có văn bản gửi Bảo hiểm các địa phương để hướng dẫn theo hướng doanh nghiệp cần có văn bản đề nghị với cơ quan bảo hiểm xã hội đề nghị đóng trước bảo hiểm xã hội cho những người nằm trong diện cần chốt sổ trong thời gian đó và cam kết với cơ quan bảo hiểm xã hội là chuyển nốt số tiền nợ đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Về sự chỉ đạo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về vấn đề này, thời gian qua, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có nhiều văn bản gửi UBND, Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố, gần đây ngày 26/10/2011, Bộ có công văn số 3624 gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện một số nội dung:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền cho người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Thứ 2, phối hợp với các cơ quan liên quan nắm bắt số lượng doanh nghiệp, số người lao động để yêu cầu người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
Thứ 3, tổ chức các đoàn kiểm tra thanh tra liên ngành việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, trước hết tập trung thanh tra kiểm tra các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, xử lý kiên quyết theo đúng pháp luật các hành vi vi phạm về bảo hiểm xã hội.
Thứ 4, tăng cường vai trò của tổ chức công đoàn trong phát hiện và yêu cầu người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Đinh Duy Biện – Huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương: Tôi có nghe là trong dự thảo Luật lao động sửa đổi có đề xuất về tăng thời gian làm thêm, liệu điều này có tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp lợi dụng vắt kiệt sức của người lao động hay không?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Theo quy định của Bộ luật Lao động hiện hành, thời gian làm thêm mỗi năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt là 300 giờ. Vừa rồi, Bộ LĐTBXH là cơ quan soạn thảo dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) có đề xuất báo cáo Chính phủ, Chính phủ báo cáo Quốc hội tăng giờ làm thêm lên 360 giờ, tăng 60 giờ so với hiện tại.
Có 2 căn cứ để đề xuất như vậy. Yếu tố thứ nhất là năng suất lao động tại Việt Nam chưa được cao. Thứ hai, có một số doanh nghiệp mang tính thời vụ, ký hợp đồng theo thời hạn. Khi chuẩn bị xây dựng Luật này, chúng tôi cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, xin ý kiến các cơ quan quản lý, người lao động cũng như doanh nghiệp. Trong thực tế, một bộ phận người lao động có nhu cầu làm thêm để tăng thu nhập. Nhiều doanh nghiệp đề nghị trong những điều kiện cụ thể mang tính thời vụ có thể tăng giờ làm thêm lên 360 giờ.
Trên cơ sở quyền lợi người lao động là chính, tính đến quyền lợi của doanh nghiệp, cơ quan soạn thảo đề xuất như vậy.
Về vấn đề “vắt kiệt sức lao động”, dự thảo Luật đã quy định 2 vấn đề ràng buộc. Một là phải được sự đồng ý của người lao động. Thứ hai, tiền trả làm thêm cũng tăng 20% so với hiện hành.
Như vậy, việc tăng giờ làm thêm không hẳn như một số ý kiến lo ngại là “vắt kiệt sức lao động”, mà là xuất phát từ nhu cầu thực tế. Và Quốc hội sẽ xem xét có thông qua đề xuất này hay không.
Trương Hoàng Trọng –  Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh: Hiện nay quy định về mức lương tối thiểu không còn phù hợp do lạm phát giá cả tăng cao. Xin Bộ trưởng cho biết trong năm 2012 tới chế độ tiền lương có tiếp tục được điều chỉnh hay không?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Vấn đề lương tối thiểu là vấn đề nhạy cảm. Việc xây dựng lương tối thiểu dựa trên căn cứ khoa học về mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, khi xây dựng,  so với quá trình trượt giá thì đến thời điểm này, rõ ràng, mức lương tối thiểu cần được xem xét. Chính vì vậy, Quốc hội đã giao cho Chính phủ xây dựng Luật Lương tối thiểu. Tới đây, trong quá trình xây dựng Luật Lương tối thiểu, những nội dung cụ thể này sẽ được giải quyết.
Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết – Phường Thới Bình, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ: Qua tìm hiểu việc thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở một số địa phương tôi thấy việc dạy nghề cho nông dân  không sát thực tế và thiếu chất lượng. Bộ trưởng nhìn nhận như thế nào về vấn đề này và theo Bộ trưởng phải làm sao để thực hiện Đề án với nguồn kinh phí rất lớn đó không bị lãng phí và đạt được hiệu quả thiết thực?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tôi xin nói rõ thêm về ý kiến của độc giả. Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” được ban hành cuối năm 2009.
Việc thực hiện chương trình đến thời điểm này mới được hơn 1 năm, chúng ta mới ở bước tuyên truyền hướng dẫn, triển khai và xây dựng mô hình điểm. Những nội dung triển khai dạy nghề cụ thể chưa được nhiều.
Tới đây, chúng tôi sẽ tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm nhưng có lẽ là quá sớm để cho rằng chương trình này không sát thực tế, chưa hiệu quả. Tuy nhiên, chúng tôi cũng rất quan tâm tới ý kiến của độc giả Hoàng Thị Tuyết, phải xem xét để điều chỉnh những nội dung không phù hợp, nâng cao hiệu quả thực hiện Đề án.
Đỗ Văn Trung – huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình: Bộ LĐTBXH đã đề xuất và được Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Một trong những mục tiêu của đề án là mỗi năm đào tạo nghề cho 1 triệu nông dân, mục tiêu đó đến nay có thực hiện được không và những nông dân sau khi học nghề đã được hỗ trợ tạo việc làm như thế nào ?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Như tôi vừa nói, Nghị quyết 1956 mới được hơn một năm, ngành chỉ đạo chủ yếu mới tập trung vào mô hình điểm ở một số địa phương. Theo báo cáo, đến nay chỉ tiêu đào tạo 1 triệu lao động chưa đạt được theo chương trình. Theo tinh thần của đề án, những nơi được xây dựng mô hình điểm, số được đào tạo nghề  cụ thể, khoảng 70% có việc làm phù hợp, đấy là những nơi điểm. Còn những nơi khác chúng tôi chưa có tổng kết. Mời Phó Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề Nghiêm Trọng Quý trao đổi thêm.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề Nghiêm Trọng Quý: Đề án đào tạo nghề  nông thôn là đề án lớn, thời gian thực hiện dài. Nếu tính 12 năm, tính tới nguồn vốn Chính phủ dự kiến hỗ trợ đào tạo là 25.990 tỷ đồng.
Đề án có 2 mục tiêu về số lượng và hiệu quả.
Về số lượng, trung bình mỗi năm đào tạo 1 triệu lao động nông thôn, về hiệu quả, yêu cầu của đề án không chỉ là dạy, mà phải tạo việc làm. Đối với mô hình thí điểm thì phải đảm bảo 80% có việc làm. Cả giai đoạn 2011-2015: đảm bảo 70% có việc làm.
Giai đoạn 2016-2020: 80% có việc làm. Đây là đề án khó, vì đào tạo lao động nông thôn chủ yếu là đào tạo nghề, dưới 3 tháng. Mục tiêu trang bị cho bà con kiến thức kỹ năng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên từng diện tích. Như vậy tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Thứ 2, đào tạo nghề công nghiệp, dịch vụ và tiểu thu công nghiệp cho một số bà con đặc biệt là lao động trẻ nông thôn chuyển sang làm việc trong khu vực công nghiệp dịch vụ và trong 2 năm vừa qua, trong thiết kế của đề án đang tập trung làm thí điểm, chưa chạy theo số lượng. Có 4 loại chính là dạy nghề trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp và đánh bắt xa bờ.
Nói chung, các mô hình điểm ở các tỉnh, kết quả khả quan, hầu hết các mô hình điểm đều đạt trên 70%, có nơi đạt trên 90% có việc làm. Tuy nhiên, cùng với việc làm thí điểm, các địa phương cũng làm đại trà, tỷ lệ có việc làm ở khu vực đại trà chưa đạt yêu cầu.
Hiện nay, theo báo cáo  của 63 tỉnh, thành thì 42 tỉnh, thành bảo đảm tỷ lệ có việc làm nói chung là trên 70%, 7 tỉnh thành có báo cáo về số liệu có việc làm thì chưa đạt được 70%, 14 tỉnh thành không có báo cáo. Công tác quản lý, theo dõi về hiệu quả đào tạo còn có vấn đề.
Thứ 2, về số liệu 2009-2010, kế hoạch đặt ra năm 2010 chỉ đào tạo 400.000 lao động, thực tế đạt 345.000, năm nay đặt kế hoạch 500.000, tính đến hết tháng 11/2011, mới đạt gần 400.000 lao động. Số lượng năm nay cũng có thể đạt được, nhưng chất lượng thì cũng còn vấn đề. Vừa rồi, Ban chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quyết định 1956 có họp và dự kiến đầu tháng 1/2012 tổ chức hội nghị sơ kết các mô hình thí điểm dạy nghề nông thôn, sơ kết tình hình thực hiện Quyết định 1956, trên cơ sở đó các địa phương đánh giá lại tình hình thực hiện, tồn tại yếu kém gì, nguyên nhân…, từ đó sẽ đề ra giải pháp khắc phục. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng chỉ đạo không chạy theo số lượng, đảm bảo mục tiêu có việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống bà con là ưu tiên trước hết.
Về đào tạo ngành nghề, muốn đảm bảo hiệu quả, đề án xác định rất rõ các bước muốn làm có hiệu quả, phải xác định nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất… và khi tổ chức lớp học xong người đó sẽ làm ở đâu, thu nhập thế nào, chính sách thế nào…
BTV: Có 3 độc giả hỏi về cùng một vấn đề là xuất khẩu lao động, xin được chuyển đến Bộ trưởng.
Trịnh Hòa Bình -  huyện Quỳnh Nhai, Sơn La: Tôi đã được Nhà nước hỗ trợ đi xuất khẩu lao động ở Libya nhưng phải về nước trước thời hạn, hiện tôi vẫn còn nợ ngân hàng, nay tôi muốn lại được đi xuất khẩu lao động thì có được hưởng những chính sách ưu đãi gì không?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Như chúng ta đã biết, Đảng, Nhà nước rất quan tâm tới tình hình lao động tại Libya. Chiến dịch đưa 10 nghìn lao động tại Libya về nước là thành công  lớn, thể hiện trách nhiệm đó. Sau đó, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã có báo cáo Chính phủ về các vấn đề cụ thể đối với các lao động này.
Như báo cáo vừa rồi, những lao động từ Libya về nước thuộc 62 huyện nghèo sẽ được hỗ trợ thêm 50% vốn đi xuất khẩu lao động cho đối tượng không phải là hộ nghèo từ Quỹ Quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước. Những người đã vay tiền được đề nghị ngân hàng gia hạn nợ, giãn nợ, khoanh nợ. Do đó, nếu huyện của bạn thuộc diện 62 huyện nghèo, ngoài chính sách chung sẽ được hưởng chính sách như vậy.
Nếu tới đây bạn có nguyện vọng đi xuất khẩu lao động, bạn nên liên hệ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, để họ có thể bố trí, sắp xếp cho bạn đi phù hợp với nghề nghiệp và với doanh nghiệp đối tác.
Trần Thiện Duy –  Quận Hà Đông, Hà Nội: Thưa Bộ trưởng trước tình hình thị trường xuất khẩu lao động ở một số nước bị thu hẹp, xin Bộ trưởng cho biết chủ trương xuất khẩu lao động của Bộ trong năm 2012 để người dân biết và chủ động.
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao, nỗ lực tiếp cận các thị trường xuất khẩu lao động để khi công tác tạo việc làm trong nước khó khăn thì đẩy mạnh hoạt động này ở ngoài nước. Năm 2011, chúng ta dự kiến đưa khoảng 90 nghìn lao động ra làm việc ở nước ngoài, năm 2012 phấn đấu đạt khoảng 100 nghìn.
Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần củng cố các thị trường truyền thống như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản…
Thứ hai, đẩy mạnh khai thác các thị trường mới, ví dụ vừa rồi, sau khi các nước Trung Đông ổn định, chúng ta lại tiếp tục triển khai đưa người sang làm việc tại các nước có nhu cầu.
Thứ ba, quan tâm nâng cao chất lượng lao động, nhất là lao động làm việc tại các nước có thu nhập cao. Vừa rồi, tôi có dự Hội nghị ILO khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản khẳng định Nhật Bản rất cần lao động có chất lượng cao, nhưng phải thông thạo tiếng Nhật. Tôi có đến thăm một đơn vị người lao động Việt Nam, tất cả đều nói rất phấn khởi vì thu nhập tới 1.400 USD một tháng, nhà máy có chỗ ở. Tuy nhiên, điều buồn nhất là sau gần 1 năm làm việc, tiếng Nhật vẫn chưa thông thạo lắm nên rất khó khăn trong giao tiếp. Tới đây, nếu các chương trình hợp tác về lao động giữa Việt Nam và Nhật Bản được triển khai, như chương trình đưa hộ lý, y tá Việt Nam sang Nhật theo thỏa thuận của Thủ tướng hai nước, chúng tôi cho rằng việc dạy tiếng cùng với đào tạo nghề là rất cần thiết.  Điều này cũng rất cần thiết để chúng ta tìm đến các thị trường mới.
Phạm Thanh Vân – xã Hoà Lợi, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre: Xin Bộ trưởng cho cháu 1 lời khuyên để không bị lừa đảo khi làm các thủ tục đi xuất khẩu lao động?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Chúng tôi rất quan tâm tới vấn đề này. Có những đối tượng đã trục lợi thông qua việc lợi dụng nhu cầu chính đáng và sự thiếu hiểu biết, không nắm rõ thông tin của người lao động.
Mới đây, Hàn Quốc đã đồng ý tiếp nhận 15.000 lao động Việt Nam. Kỳ thi tiếng Hàn được tổ chức, nhưng có tới 67.000 người đăng ký. Do đó, một số cò mồi đã hoạt động trong lĩnh vực này. Chúng tôi đang phối hợp cùng với Bộ Công an xem xét, xử lý các cò mồi trong kỳ thi này.
Về nội dung cụ thể, tôi xin mời Cục phó Cục Quản lý lao động ngoài nước Lê Văn Thanh.
Cục phó Cục Quản lý lao động ngoài nước Lê Văn Thanh: Lao động cần liên hệ ngay tới Cục Quản lý Lao động ngoài nước. Trang web của Cục làwww.dolab.gov.vn. Tại đây, chúng tôi đã đăng tải rất nhiều thông tin về các thị trường xuất khẩu lao động, các chính sách, doanh nghiệp có đăng ký, được phép đưa lao động đi nước ngoài. Lao động có thể liên hệ trực tiếp với các doanh nghiệp này để có thể được lựa chọn đi làm việc phù hợp ở nước ngoài.
Thứ hai, Cục có đường dây nóng để người lao động có thể liên hệ trực tiếp: 04.38249517, số máy lẻ 511, 512.
Ngoài ra, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cũng có rất nhiều biện pháp tuyên truyền, thông qua báo chí, tờ rơi… Đồng thời, các thông tin về xuất khẩu lao động cũng thường xuyên được cung cấp tới  các Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động địa phương (từ tỉnh, huyện tới xã), người lao động có thể liên hệ trực tiếp để có thông tin đầy đủ, tránh bị lừa đảo.
Thạch Nam Phương, Cà Mau: Tôi tên Thạch Nam Phương, đang công tác ở Cà Mau. Tôi xin hỏi, ngành nghề nào cũng góp phần xây dựng xã hội, nhưng tại sao ngành Giáo dục, cụ thể là nhà giáo lại có phụ cấp trong khi hầu hết các ngành khác thì không có, đặc biệt là đối với công chức nhà nước. Trong khi nhà giáo không phải làm việc 8 giờ mỗi ngày và 12 tháng mỗi năm. Nếu nói là nhà giáo không có khoảng thu nhập nào khác thì công chức nhà nước, nhất là công chức làm công tác quản lý nhà nước tại các Sở, Ban, Ngành thì cũng không có khoản thu nhập nào khác ngoài lương?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Thứ nhất, vấn đề phụ cấp nghề đặc thù, không phải chỉ có ngành Giáo dục.  Thực tế hiện nay, một số ngành cũng có phụ cấp như thanh tra, giáo dục và một số ngành đặc thù… Tuy  nhiên, ý kiến của độc giả rất đáng quan tâm, vì giữa ngành giáo dục với công chức, các ngành khác, tại sao có ngành phụ cấp, có ngành không.
Vấn đề này chúng tôi sẽ nghiên cứu để có đề xuất chính sách trong thời gian tới như thế nào.
Nguyễn Thị Liên, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội: Tôi là cán bộ nghỉ mất sức lao động từ năm 1993. Đó là những tháng ngày giảm biên chế trên toàn hệ thống cơ quan nhà nước.  Ngày về tôi có thời gian công tác 18 năm 7 tháng, nên hơn 9 năm sau tôi được thông báo là đã hết thời gian trợ cấp. Tôi cũng rất lo cho tương lai cuộc sống cho nên sau khi nghỉ mất sức tôi lại quyết tâm học thêm một bằng đại học nữa – tôi đi giảng dạy hợp đồng cho nhiều nơi nhưng vẫn không có chế độ nộp bảo hiểm. Bây giờ khi đã già yếu thì may mắn là mới nhận được trợ cấp bảo hiểm của Chính phủ mỗi tháng hơn 500 ngàn đồng. Tôi muốn hỏi hai điều:
Thứ nhất: Tôi có cơ hội để nộp bảo hiểm tự nguyện cho đủ năm tháng để hưởng chế độ hưu trí hay không?
Thứ hai: Nếu để hưởng chế độ trợ cấp sao không để 45% lương như chế độ mất sức mà chúng tôi đã hưởng trước đó?
Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội Trần Thị Thúy Nga: Bà thuộc diện hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng. Tuy nhiên, nhằm giúp giảm bớt khó khăn cho những đối tượng hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 613/QĐ-TTg ngày 6/5/2010 về việc trợ cấp hàng tháng cho những người có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động mà nay hết tuổi lao động.  Bà thuộc diện hưởng trợ cấp theo Quyết định này.
Về câu hỏi thứ nhất, tôi xin trả lời là bà không thuộc diện được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vì đã hết tuổi lao động và đang hưởng trợ cấp do Nhà nước đảm bảo.
Về câu hỏi thứ hai, tôi xin trả lời: Trợ cấp hàng tháng theo Quyết định 613 là khoản hỗ trợ cho những người đã hết thời hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng mà nay hết tuổi lao động. Mức hỗ trợ này được tính toán để đảm bảo công bằng với các đối tượng khác, ví dụ đối tượng được hưởng trợ cấp Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 4/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp cho người đã hết tuổi lao động tại thời điểm ngừng hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng. Đồng thời, mức trợ cấp này cũng được tính toán phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách.
Trần Lộc, Cà Mau:  Ông Lưu Lương Chiêu, sinh năm 1935, quê quán: xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; trú tại số 62 đường Đề Thám, khóm 4, phường 2, thành phố Cà Mau.
Ông tham gia cách mạng từ tháng 2/1961 đến tháng 2/1974, là chiến sĩ nội tuyến Ban binh vận tỉnh Cà Mau. Ông được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba, ngày 3/5/1988 (Quyết định số 103 KT/HĐNN ngày 3/5/1988). Ông từ trần ngày 4/2/2006.
Ngày 13/6/2006, bà Trần Liên Hoa (vợ  ông Lưu Lương Chiêu) đã làm Bản khai đề nghị hưởng chế độ một lần cho ông Chiêu theo Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Hồ  sơ được chính quyền và các đoàn thể  phường 2, thành phố Cà Mau hoàn tất (theo quy định) từ cuối năm 2008.
Đến ngày 22/8/2011, Phòng Chính sách – Người có công Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Cà Mau do ông Trần Hoàng Vũ, Phó trưởng phòng ký Phiếu thẩm định hồ sơ khẳng định: Trường hợp của ông Lưu Lương Chiêu đã từ trần ngày 4/2/2006 là không thuộc đối tượng được áp dụng theo chế độ tại Quyết định 290 và Quyết định 188 của Thủ tướng Chính phủ.
Vậy, xin hỏi Bộ trưởng Bộ Lao động–  Thương binh và Xã hội: Trường hợp của ông Lưu Lương Chiêu đã từ trần ngày 4/2/2006 (sau ngày Quyết định 290 có hiệu lực) có được hưởng chế độ theo quy định tại Quyết định 290 của Thủ tướng Chính phủ không? Việc trả lời của cán bộ Phòng chính sách – người có công Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Cà Mau như vậy có đúng không?
Phó Cục trưởng, Cục Người có công Lê Hồng Sơn:Trước hết, tôi xin chia sẻ với bà Trần Liên Hoa, vợ ông Lưu Lương Chiêu. Trường hợp ông tham gia cách mạng từ 2/1961-2/1974, thời gian tham gia là khá dài. Nếu đúng như bản khai này và được chính quyền các địa phương xác nhận, hồ sơ của ông nằm trong đối tượng quy định trong Điều 1 của Quyết định 290 ngày 9/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Thời điểm Nghị định ra đời và lúc ông chết, kế theo là các thông tư hướng dẫn là thời điểm giao thời. Do vậy, trong quá trình giải quyết các địa phương có thể có lúng túng. Trường hợp này chúng tôi xin ghi nhận phản ánh của độc giả, Cục Người có công sẽ làm việc với Sở LĐTBXH của tỉnh Cà Mau, nếu trường hợp của ông đúng với đối tượng được quy định tại Điều 1 của Quyết định 290 thì sẽ nhanh chóng giải quyết quyền lợi chế độ nhân thân của ông Lưu Lương Chiêu.
Trương Thanh Hải, Thôn 5, xã Kim Bảng, Minh Hóa – Quảng Bình: Bố cháu từng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bị thương nên được cấp thẻ bệnh binh 64%. Sau khi bố cháu mất thì cháu và em trai cháu đang đi học nên được hưởng trợ cấp hàng tháng. Còn mẹ cháu thì phòng LĐTBXH Huyện Minh Hóa nói là đến 55 tuổi mới có thể làm thủ tục hưởng trợ cấp (lúc đó mẹ cháu mới 47 tuổi ). Khi đến 55 tuổi, mẹ cháu đi làm thủ tục thì Phòng LĐTBXH lại nói không được nữa. Vậy cho cháu hỏi hỏi trường hợp của mẹ cháu có được làm thủ tục hưởng trợ cấp không, và nếu được thì thủ tục làm hồ sơ bao gồm những gì?
Phó Cục trưởng Cục Người có công Lê Hồng Sơn: Theo quy định tại Nghị định 54 ngày 26/5/2006 của Chính phủ, khi thương binh, bệnh binh suy giảm mất sức lao động từ 61% trở lên chết thì cha mẹ, vợ hoặc chồng được hưởng trợ cấp hàng tháng nếu ở thời điểm thương binh, bệnh đó chết, thân nhân đủ 60 tuổi với nam, 55 tuổi với nữ. Tuy nhiên, trong trường hợp thân nhân chưa đủ tuổi nói trên thì Nghị định chưa quy định. Thực tế, từ trước tới nay, chúng ta cũng chưa giải quyết chế độ chờ. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Cục Người có công ghi nhận vấn đề này và tới đây sẽ trình Chính phủ sửa đổi theo hướng: Khi thân nhân đủ tuổi sẽ được hưởng trợ cấp hàng tháng để đảm bảo công bằng.
Nguyễn Lê Bách, tổ 5, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội: Xin hỏi Bộ trưởng 2 câu:
1, Gần đây, lại xuất hiện nhiều vụ lừa đảo về xuất khẩu lao động. Bộ có biện pháp gì để ngăn chặn chuyện này? Bộ cũng có công ty làm XKLĐ, vậy liệu công ty này có được “ưu ái” gì so với các công ty khác hay không ?
2,. Làm thế nào để những thông tin chính xác về XKLĐ đến được những lao động muốn đi xuất khẩu? Chẳng hạn, đưa thông tin công khai tại trụ sở UBND xã, phường; công ty XKLĐ cử cán bộ làm việc trực tiếp với đại diện dòng họ, với UBND; UBND xã phường cử hẳn một Phó Chủ tịch đứng ra lo việc này cho dân… Có tình trạng là công ty XKLĐ khi về địa phương tuyển người, bị “khoanh vùng” từ cấp huyện hoặc xã, muốn tuyển ở ngoài vùng đó thì phải có “phong bì” , vấn đề này sẽ được xử lý như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Về vấn đề liên quan tới xuất hiện lừa đảo lao động, giúp người lao động tránh khỏi hiện tượng này, ông Lê Văn Thanh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước vừa trả lời. Tôi cũng xin giải thích thêm. Thứ nhất, tôi đồng ý, nếu chỉ trên Cổng TTĐT, người lao động không có điều kiện tiếp cận. Tôi đồng tình tiếp thu ý kiến này, tới đây, Cục Quản lý lao động ngoài nước sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động phải có thông tin về từng đợt, từng chương trình, từng đối tác được đưa người lao động đi xuất khẩu để hướng dẫn xã và xã có trách nhiệm thông tin hướng dẫn người lao động. Muốn làm được điều ấy, Bộ phải có quy định đối tượng yêu cầu doanh nghiệp đưa đi xuất khẩu lao động.
Hiện nay, Bộ còn 2 công ty xuất khẩu, nhưng 2 công ty này cũng thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và cũng thực hiện công khai công bằng như các công ty khác. Tuy nhiên, 2 công ty này có lợi thế hơn, nguồn lực, nhu cầu lao động, 2 công ty này có thể nắm trước, các chủ động được việc chuẩn bị trước các phương án chọn, nhận người.
Ý thứ 3, tôi cũng rất quan tâm. Bộ LĐTBXH rất mong nhận được góp ý của nhân dân, người lao động và phản ánh kịp thời lên chúng tôi. Khi có thông tin, chúng tôi sẽ kiểm tra trực tiếp, sai đến đâu, xử đến đó, đúng đối tượng, theo quy định của pháp luật.
Phạm Văn Lung, 66 tuổi, Minh Đức, Mỹ Hào, Hưng Yên: Tôi nhập ngũ ngày 15/4/1965, chuyển về ngành giáo dục công tác từ tháng 12/1975, nghỉ hưu tháng 5/2005. Trong suốt thời gian công tác, tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ. Tôi cũng là quân nhân như bao quân nhân khác, tại sao tôi không được hưởng trợ cấp theo Quyết định 142 của Chính phủ.
Ngày 16/12/2011, chúng tôi được cấp Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng 1, 2, 3 do Huyện đội Mỹ Hào trực tiếp giao. Khi chúng tôi nhận thì chỉ có huân chương, không có giấy chứng nhận, khung kính và cũng không có tiền thưởng kèm theo. Hỏi đồng chí giao, thì đồng chí ấy bảo các bác thông cảm, về nhà tự mua lấy khung. Vậy xin hỏi Bộ trưởng, Huyện đội Mỹ Hào làm như vậy đúng hay sai?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Xin cám ơn độc giả Phạm Văn Lung. Những nội dung thắc mắc của độc giả theo quy định giao cho Bộ Quốc phòng xem xét, xác nhận, giải quyết. Chúng tôi sẽ chuyển câu hỏi này sang Bộ Quốc phòng, bác  có thể liên hệ tiếp với Bộ Quốc phòng để nhận được câu trả lời.
Lê Bích Liên, Nghệ An: Bà ngoại tôi năm nay 84 tuổi. Năm 2009, ông ngoại tôi bị mất và bà được hưởng chế độ tử tuất do ông đóng BHXH. Ngoài ra, bà không có lương hưu, ở một mình không có người nuôi dưỡng (vì con cháu đều sinh sống xa nhà). Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội nói rằng, những ai đã được hưởng chế độ BHXH (trong đó có chế độ tử tuất) thì không được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng dành cho người trên 80 tuổi (180.000 đồng/tháng). Ý kiến của Phòng LĐTBXH huyện tôi trả lời có đúng không? Có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này không? Trong trường hợp Phòng LĐTBXH thực hiện sai quy định của pháp luật thì chúng tôi cần phải làm gì để bảo vệ quyền lợi cho bà tôi cũng như những cụ già có hoàn cảnh tương tự?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Đối với người cao tuổi trên 80 tuổi, được trợ cấp hàng tháng 180.000 đồng. Hiện nay, có một số ý kiến đề nghị hạ mức trợ cấp xuống thấp hơn nhưng Chính phủ chưa xem xét. Tuy nhiên, như Phòng LĐTBXH đã trả lời, trường hợp bà của bạn đã được hưởng trợ cấp tử tuất của ông vì vậy không được hưởng chế độ cho người trên 80 tuổi. Để rõ hơn vấn đề này, đề nghị Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội Ngô Trường Thi trả lời thêm.
Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội Ngô Trường Thi: Theo khoản 2 Điều 17 Luật Người cao tuổi về đối tượng được hưởng chế độ bảo trợ xã hội đối với người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng, trường hợp bà của bạn sẽ không thuộc đối tượng được chế độ bảo trợ xã hội. Việc giải quyết của Phòng LĐTBXH là hoàn toàn đúng.
Ngô Văn Tám, Khánh Hòa: Xin hỏi tại sao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã có công văn  2813 ngày 17/08/2010 gửi cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Khánh Hòa nêu rõ các quy định của pháp luật đối với trường hợp người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật, nhưng tính đến thời điểm này đã hơn một năm mà những người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật ở Hyundai-Vinashin vẫn chưa nhận được tiền trợ cấp thôi việc, tiền lương? Phải chăng công văn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội không có tác dụng, không thấu đáo?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Như đã biết, những trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Tôi cho rằng ý sau của bạn không đúng. Văn bản của Bộ đã chỉ đạo, hướng dẫn là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một vài doanh nghiệp do quá khó khăn nên chưa thực hiện đúng, kịp thời cho người lao động theo quy định. Về vấn đề này, Bộ đã yêu cầu các đơn vị phải thực hiện nghiêm chính sách cho người lao động, nhất là chính sách chấm dứt đồng, chính sách thôi việc… Đối với thông tin bạn cho biết, chúng tôi sẽ tiếp tục đôn đốc để các đơn vị thực hiện nghiêm theo văn bản Bộ đã hướng dẫn.
Nguyễn Văn Kha, Bình Định: Tôi sinh ra và lớn ở vùng ven biển Hoài Nhơn- Bình Định, nên tôi hiểu khá rõ về cuộc sống nơi đó, nơi mà nguồn thu nhập chính dựa vào đánh bắt xa bờ, mà chỉ có đàn ông mới ra biển được, còn phụ nữ thì rảnh rỗi ở nhà.
Với nguồn thu nhập trung bình mấy mươi triệu đồng/năm, thì họ vẫn đủ sống tương đối ổn định ở một vùng quê.
Nhưng xin hỏi là Chính phủ có thấy chúng ta đang lãng phí một nguồn nhân lực dư thừa hay không?
Vậy xin hỏi, hiện tại và tương lai gần, Chính phủ đã có những hướng giải pháp gì để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dư thừa này, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Tôi thấy đây là câu hỏi rất hay, đúng là ở những vùng miền cụ thể, nhất là những nơi như quê của bạn, thì việc chỉ có lao động nam có việc làm trong khi lao động nữ không có việc làm, mặc dù đời sống không phải khó khăn lắm, vì người chồng, cha, anh ra biển đã có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Nhưng tôi nghĩ đây là tình trạng lãng phí lao động rất rõ. Chính vì vậy, Chính phủ đang có chủ trương thực hiện chiến lược biển, trong đó có vấn đề liên quan đến sản xuất ven biển, trong đó có vấn đề đối với ngư dân. Vấn đề lao động nữ ở những nơi gia đình chủ yếu sống bằng đánh bắt hải sản thì phải tiếp cận nghề cho phù hợp với địa phương đó bằng cách giúp họ có nghề mới gần đó, vẫn đảm bảo được việc chăm lo gia đình, vẫn đảm bảo có thêm nghề.
Chính phủ đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, bố trí từng nghề cho phù hợp với từng khu vực.
Nguyễn Thanh Hoài – thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị: Xin Bộ trưởng cho biết rõ hơn về Quỹ Quốc gia về việc làm ? Đối tượng được vay, mức vay, lãi suất và thời hạn vay?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Quỹ Quốc gia về việc làm hỗ trợ các dự án nhỏ tạo thêm việc làm, được quản lý thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Các đối tượng được vay gồm:
Hộ kinh doanh cá thể; tổ hợp sản xuất; hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã; cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật; doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; chủ trang trại; Trung tâm Giáo dục Lao động – Xã hội (gọi chung là cơ sở sản xuất, kinh doanh vừa và nhỏ); hộ gia đình.
Về điều kiện được vay, với các cơ sở sản xuất kinh doanh, phải có dự án vay vốn khả thi, tạo việc làm mới, thu hút thêm lao động vào làm việc ổn định, với dự án có mức vay trên 20 triệu đồng phải có tài sản thế chấp, cầm cố theo quy định của pháp luật. Với hộ gia đình, phải đảm bảo tạo thêm tối thiểu 1 chỗ làm việc mới; dự án phải có xác nhận của chính quyền hoặc cơ quan thực hiện chương trình tại địa phương nơi thực hiện dự án.
Mức vay, lãi suất và thời hạn vay thì cũng có quy định cụ thể. Đối với các các cơ sở sản xuất kinh doanh, mức vay tối đa không quá 500 triệu đồng/dự án; với các hộ gia đình, mức vay tối đa không quá 20 triệu đồng với 1 việc làm mới.
BTV: Qua hơn một tiếng đối thoại, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền và lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã trả lời thẳng thắn và giải đáp sự quan tâm của người dân về công tác an sinh- xã hội. Tuy còn rất nhiều câu hỏi của độc giả gửi đến nhưng do thời gian có hạn, chúng tôi sẽ chuyển câu hỏi tới Bộ trưởng và Bộ trưởng sẽ có văn bản trả lời sau. Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng và lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã tham dự cuộc đối thoại hôm nay. Cảm ơn sự theo dõi của quý vị độc giả.
Cổng TTĐT Chính phủ

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền làm việc với Hội đồng Bảo trợ Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam


Ngày 14/12/2011, Hội đồng Bảo trợ Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã có buổi làm việc nhằm kiện toàn nhân sự và hoạt động trong giai đoạn tới. Đến dự có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan; bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ; Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền; Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp; Phó Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ Lê Huy Côn cùng Ban Giám đốc Quỹ BTTEVN.
 Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan sẽ đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ BTTEVN
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan sẽ đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ BTTEVN
Được thành lập từ năm 1992, Quỹ BTTEVN – đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, với chức năng vận động nguồn lực hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đã kêu gọi các nhà tài trợ, các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước đóng góp được nguồn kinh phí lên đến 3.200 tỷ, đã hỗ trợ cho khoảng 27 triệu lượt trẻ em. Trong suốt 19 năm qua, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã trải qua 4 nhiệm kỳ là Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Quỹ. Với uy tín, kinh nghiệm hoạt động của mình, bà Nguyễn Thị Bình đã trở thành đầu tàu, lãnh đạo Quỹ đi đúng mục đích, tôn chỉ đã đề ra, tất cả vì trẻ em Việt Nam.
Bày tỏ lòng ngưỡng mộ và sự biết ơn của mình đối sự nghiệp hoạt động của Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ quỹ, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nhấn mạnh, những hoạt động thời gian qua của Quỹ BTTEVN và của cá nhân bà Nguyễn Thị Bình rất đáng trân trọng, xứng đáng được triệu triệu người dân biết ơn vì những cống hiến cho sự nghiệp phát triển của trẻ em – tương lai của nước Việt. Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch nước cũng cảm ơn và vinh danh sự đóng góp của ông Lê Huy Côn, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Công nghiệp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bảo trợ Qũy, đã chung vai, sát cánh và rất tích cực trong công tác của Qũy suốt 10 năm qua. Phó Chủ tịch nước khẳng định, nhờ những người lãnh đạo tận tình, giàu lòng yêu thương con trẻ nên thời gian tới, chắc chắn sẽ vận động nhiều nguồn lực hơn nữa để trẻ em Việt Nam có những nụ cười tươi hơn, có trái tim khỏe mạnh hơn, ánh mắt trong sáng hơn và những đôi chân vững vàng để góp phần xây dựng đất nước.
Thời gian tới, vì lý do sức khỏe, bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Huy Côn sẽ thôi đảm nhiệm công tác nhưng tin rằng bằng mọi khả năng, tâm nguyện vẫn tiếp tục góp sức để kêu gọi các nguồn lực hỗ trợ cho trẻ em Việt Nam. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan sẽ đảm trách vị trí Chủ tịch Hội đồng BTTEVN.
Cũng trong buổi làm việc này, bà Vũ Anh Đào, Giám đốc Quỹ BTTEVN cho biết, trong năm 2011, Quỹ đã vận động được trên 50 tỷ đồng, giúp đỡ cho gần 1 triệu lượt trẻ em được phẫu thuật mắt, trên 3.000 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhận học bổng, hàng ngàn em được phẫu thuật môi hàm ếch, phẫu thuật dị tật vận động, trên 2.000 cháu được nhận cặp phao cứu sinh… Hàng ngàn trẻ vùng khó khăn được hưởng lợi từ các công trình nước sạch và xây dựng trường học. Đặc biệt, nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi, Quỹ đã đưa 55 em có hoàn cảnh đặc biệt vươn lên học giỏi của toàn quốc về gặp mặt, biểu dương tại Phủ Chủ tịch lần thứ 4.
Trong dự thảo kế hoạch năm 2012, Quỹ đặt ra mục tiêu huy động 40 tỷ đồng. Tuy nhiên, bà Phạm Thị Hải Chuyền, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng, mặc dù thời điểm này kinh tế trong nước cũng như thế giới có nhiều khó khăn, nhưng chính sách đối với trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng vẫn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Vì vậy, năm 2012, Quỹ vẫn nên đảm bảo phấn đấu bằng hoặc cao hơn con số 50 tỷ đạt được trong năm 2011. Phó Chủ tịch nước cũng bày tỏ sự đồng cảm và chia sẻ với các vấn đề khó khăn của Quỹ, đồng thời, ủng hộ quan điểm giữ nguyên hoặc nâng cao số tiền cần vận động được của Quỹ trong năm mới.
Ông Lê Huy Côn đã chia sẻ kinh nghiệm của mình trong thời gian làm việc cùng bà Nguyễn Thị Bình, theo đó, ông đánh giá cao uy tín, sự trong sáng, không vụ lợi của tất cả cán bộ Quỹ, đây là một sự tận tâm, tình nguyện gắn bó hết lòng vì tình yêu đối với trẻ em Việt Nam. Tuy vậy, đến thời điểm này, chỉ có 8/22 cán bộ thuộc biên chế của Quỹ và ngoài tiền lương, đời sống của anh chị em Quỹ còn nhiều khó khăn nên cần có sự xem xét, quan tâm thích đáng hơn nữa. Bên cạnh đó, Quỹ cần tiếp tục quan tâm, vinh danh những đơn vị, cá nhân ủng hộ Qũy và trong giai đoạn kiện toàn, nên mời thêm những người có uy tín, có khả năng vận động tài chính để trở thành thành viên Hội đồng Bảo trợ Qũy, đặc biệt là vai trò của các NGO, các vị lãnh đạo của các Đại sứ quán tại Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền sẽ đối thoại trực tuyến với người dân


Nhằm cung cấp thông tin chính thức của cơ quan quản lý Nhà nước, đáp ứng mối quan tâm của người dân về công tác an sinh xã hội, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyềnsẽ đối thoại trực tuyến với người dân qua Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
Cuộc đối thoại dự kiến diễn ra vào 14h thứ Hai, ngày 19/12/2011, tập trung vào các nhóm vấn đề chính: thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2011-2015; thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ; đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; trợ cấp, trợ giúp các đối tượng khó khăn, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.
Bộ trưởng LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền sẽ đối thoại trực tuyến với nhân dân qua Cổng TTĐT Chính phủ vào ngày 19/12/2011
Bộ trưởng LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền sẽ đối thoại trực tuyến với nhân dân qua Cổng TTĐT Chính phủ vào ngày 19/12/2011
Bên cạnh đề cập đến những nét nổi bật trong tác an sinh xã hội thời gian qua, cuộc đối thoại sẽ giải đáp các vấn đề về chủ trương, chính sách an sinh xã hội mà các địa phương và nhân dân quan tâm.
Qua Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, cuộc đối thoại được truyền hình trên internet để cung cấp thông tin tới các tầng lớp nhân dân trong nước, bà con Việt kiều, các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền: Nên đa dạng các phong trào thi đua


Đó là một trong những ý kiến chỉ đạo quan trọng của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền – Ủy viên Hội đồng thi đua khen thưởng Trung ương, Trưởng đoàn kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua khen thưởng (TĐKT) năm 2011 của Khối các Bộ, ngành khoa học – văn hóa – xã hội trong buổi làm việc với 3 đơn vị là Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội và Trường ĐH Giao thông – Vận tải ngày 14/12.
Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo các đơn vị đã báo cáo với Đoàn về tình hình thực hiện công tác TĐKT thời gian qua. Đồng thời, các đơn vị cũng kiến nghị với Đoàn một số vấn đề bổ sung, như đổi mới về khen thưởng, thi đua; đổi mới về tổ chức làm công tác TĐKT; quy chế hoạt động của Hội đồng thi đua, những tồn đọng về công tác TĐKT…
Quang cảnh buổi làm việc
Quang cảnh buổi làm việc
Để đổi mới công tác TĐKT, theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý, nên coi đây là một nghề, cán bộ chuyên trách TĐKT cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. “Về vấn đề khen thưởng, hiện nay chúng ta có quá nhiều hình thức khen thưởng nhưng chưa chú trọng tổ chức trao thưởng nên hạn chế việc tôn vinh, khích lệ, động viên giáo viên, học sinh, sinh viên. Công tác khen thưởng phải kịp thời, tăng cường phát hiện nhân tố mới để khen, không nhất thiết phải bình bầu, kỳ hạn”- Thứ trưởng Trần Quang Quý đề nghị.
Đề xuất với Hội đồng TĐKT Trung ương về vấn đề khen thưởng cho đội ngũ trí thức, khoa học, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội, ông Kiều Thế Hưng nêu vấn đề: Hiện nay, theo quy định ở cấp trường, hiệu trưởng có thẩm quyền tặng tới danh hiệu cao nhất là giấy khen. Như vậy đối với hiệu trưởng các trường ĐH cũng ngang bằng với hiệu trưởng các trường mần non, trung học. Trong khi đó, đội ngũ tri thức ở các trường ĐH là giáo sư, tiến sĩ, nếu chỉ nhận được giấy khen của hiệu trưởng thì sẽ hạn chế việc tôn vinh, khích lệ, động viên. “Ở cấp trường ĐH, cần xây dựng cơ chế  mở đối với các hình thức khen cao, như trao quyền cho hiệu trưởng có thẩm quyền tặng khen tới mức bằng khen”, ông Hưng kiến nghị.
Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đánh giá cao sự quan tâm, chỉ đạo của  Bộ GD&ĐT trong công tác TĐKT. Theo đó, các trường tiếp tục thực hiện sâu rộng đến cơ sở, thi đua hướng vào chất lượng và hiệu quả công tác, coi công tác TĐKT là một nhiệm vụ quan trọng nhằm quản lý nhà trường, thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị cá nhân.
Theo Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền, ngành GD&ĐT đã quán triệt chủ trương đổi mới công tác TĐKT của Bộ Chính trị, phát động được những phong trào TĐKT thưởng thực tiễn, bám sát những vấn đề nổi lên để triển khai thực hiện, như phong trào: “Dạy tốt -Học tốt”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Tích cực hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu xã hội. Gần đây là phong trào “Mỗi thầy cô là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyển đề nghị ngành giáo dục cần phải phát động đa dạng các phong trào, đánh giá bình xét thi đua cụm. Theo đó, để công tác TĐKT đi vào thực tiễn, công tác tuyên truyền phải đi liền, từ đó nhân rộng các điển hình tiên tiến thông qua các danh hiệu được phong tặng để họ chia sẻ kinh nghiệm. Đặc biệt, công tác khen thưởng phải quan tâm giải quyết, động viên kịp thời những gương điển hình.
Liên quan đến vấn đề khen thưởng cho đội ngũ tri thức, Bộ trưởng đề nghị ngành giáo dục cần phải có sáng tạo giữa khen và thưởng, có tổng kết và có phần thưởng thích đáng cho đối tượng được khen, thưởng.